Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Gia Huấn Ca - Nguyễn Trãi & Gia pháp - Gia lễ
Trước khi đọc bài Gia Huấn Ca của Đại thi hào Nguyễn Trãi , Bochet mạn
phép nói về chữ : Gia pháp - Gia lễ
Gia Pháp
Đặc biệt nhất trong văn hoá gia đình Việt là có một gia pháp cho từng
thành viên của gia đình cần phải gìn giữ.
Gia pháp là phép tắc của một gia đình, phép tắc này không ghi thành bản
văn, mỗi gia đình có một gia pháp riêng, nhưng cũng rất chung nhiều cho các gia
đình.
Gia pháp bao gồm:
Những phép tắc trong hành xử: làm con phải hiếu, làm anh chị phải nhừơng…
Những phép tắc về kính: giỗ chạp, kiêng tên, báo ân, họp mặt chúc tết
ông bà…
Những nguyên tắc khi phải sửa dạy..
Gia pháp là một thứ luật lệ không văn bản trong một gia đình, cho nên
người Việt được dặn khi đi đến đâu, khi đến ở gia đình nào, cần phải tuỳ cơ ứng
biến mà: “Nhập gia tuỳ tục”. Giữ gìn phép tắc của gia đình người khác như gia
đình của minh mới là người được đáng tôn trọng trong xã hội Việt Nam chúng ta.
Gia lễ
Lễ (nghi thức) của gia đình có thể tóm tắt trong: "quan, hôn, tang,
lễ".
Quan không có nghĩa là làm quan, quan ở đây chính nghĩa là đội mũ, là
hình thức lễ trân trọng chào mừng đứa bé mới ra đời;
Hôn có nghĩa là lễ thức hôn nhân của gia đình làm đẩ chúc mừng cho đôi
trẻ thành hôn;
tang là lễ thức tiễn đưa một người về chầu tiên tổ;
tế là những hình thức tế lễ để kinh nhớ ông bà tổ tiên.
Gia pháp - Gia Lễ định hình cho một cấu trúc gia đình, không thành văn,
mọi người đều cần được học biết để: "Nhập gia tuỳ tục", theo đó mà
đánh giá được mức độ hiểu biết và lòng tôn trọng của người đến thăm.
Gia Phong
Từ những gia pháp - gia lễ của các gia đình hình thành nên gia phong của
các gia đình ấy. Gia Phong nghĩa là phong cách sống của một gia đình, nó là
danh dự của gia đình ấy, không được phép làm nhục gia phong, người làm nhục có
thể bị khai trừ khỏi họ.
Ví dụ đời nhà Trần có Trần Ích Tắc, Trần Kiện bán mình cho quân Nguyên
đã bị xoá tên trong họ để khỏi làm nhục cho gia phong.
Để gìn giữ gia phong nên mới có những gia huấn ca. Có rất nhiều sách gia
huấn ca dành cho trẻ con cũng như người lớn. Điển hình sách dạy cho trẻ em thì
có: Bùi Gia Huấn Hài của Bùi Dương Lịch, Khải Đồng huyết ước của Phạm Vọng, Sở
học chỉ nam của Nguyễn Huy Oánh, Sách học vấn tân của Đặng Huy Trứ, về vè thì
có Hiếu tự ca, Nữ tắc thường lẽ.. của cụ Sáu Trần Lục.
Những sách cho nhiều người làm sách gối đầu thì có gia huấn ca của Nguyễn
Trãi, Huấn Đồng thi tập của phùng Khắc khoan (Hoàng giáp năm 1580), Nữ huấn tân
thư của Ngô Thế Vinh (tiến sỹ năm 1829), Ngũ huấn quốc tự âm của Nguyễn Tông
Khuê (hoàng giáp năm 1721), Phụ châm tiện lãm của Lý văn Phức (cử nhân năm
1820)… các sách thuộc loại gia huấn ca có chỗ đứng rất cao trong các thể loại
sách từ xưa đến nay.
Từ hình thức văn chương đến hình thức kịch nghệ, sân khấu, đến phim ảnh
là khoa học hiện đại, chủ đề gia huấn ca vẫn là một đề tài hấp dẫn nhiều người
bằng nhiều cách thức diễn tả khác nhau. Các phim ảnh có ảnh hưởng nhiều nhất đối
với người Việt là loại phim ảnh tâm lý giáo dục hôn nhân gia đình.Thấy những
giá trị của gia huấn ca mới thấy được tầm quan trọng của nét gia phong, chính ở
đó hình thành những nhân cách cá nhân tuyệt vời cho xã hội.
Gìn giữ và phát triển gia phong là cách bảo tồn văn hoá gia đình cách
thiết thực và chinh phục nhất và cũng là cách thức bảo tồn phong phú nhất cho bản
sắc văn hoá gia đình Việt.
Gia huấn ca Nguyễn Trãi:
Lời Mở Đầu
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.
Dạy Vợ Con
Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì?
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,
Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm,
Con hiền cha mẹ an tâm,
Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh.
Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,
Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,
Hoặc khi hội hát linh đình,
Đ ược lời dạy đến thì mình hãy ra.
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đ ừng đánh đàn, đánh lũ không hay,
Nói đừng chau mặt, chau mày,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây !
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.
Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa,
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Với Cha Mẹ
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đ ừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi,
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
Xấu trong làng nước, để cười mai sau
Với Chồng
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm,
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.
Sách có chữ "nhập gia vấn húy",
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,
Chữ "tùy" là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc,
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm,
Dần dà uốn mãi may mềm được chăng !
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu "tương kính như tân" làm lòng.
Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.
Với Vợ Lẻ
In lấy chữ tao khang chi nghị,(*)
Đừng mang câu đố kỵ chi thường,
Dây bìm cho tựa cành vàng,(*)
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái" xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,
Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai?(*)
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,
Ấm no nên xót lấy người bơ vơ.
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ "Tùy" rắn khúc nghi gia,
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.
(*) Tao khang chi nghị: tình nghỉa tấm cám, nói về vợ chồng lúc còn hàn
vi
(*) Dây bìm cho tựa cành vàng: ý nói vợ lẻ nương tựa nhờ chồng
(*)Hòe: cây hòe, hòe thường mượn để ví con quý
Quế: cây quế, củng mượn để ví con giỏI
Với Bạn Hữu Của Chồng
Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!
Với Chị Em
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!
Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch,
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.
Thúc tẩu: em chồng với chị dâu
Vân Trường: Ông Quan Vân Trường, Quan Vũ
Ba Nước: thời tam quốc bên tàu, Ngụy, Thục, Ngô
Với Trong Họ Ngoài Làng
Cả trong ngoài cùng là ðàn cháu,
Xem nhý con yêu dấu chẳng sai,
Ðồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ ðiều dằn vật, chớ lời gieo ðanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.
Với Những Khi Sản Dục
Ấy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,
Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!
Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh,
Đứng ngồi chính đại quang minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vịn cao cũng đừng mang nặng,
Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần,
Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,
Trước mình yên dạ, sau con ít sài.
Ngôn Hạnh: lời nói và nết ở, hai trong 4 đức của nử lưu, công, dung,
ngôn, hạnh
Sóc: mùng một
Vọng: ngày rằm
Hối: ba mươi
Huyền: thượng huyền (mùng 8), hạ huyền (22). Hai ngày này trăng hình như
vòng cung nên gọi là huyền
Với Con Cái
Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đ ừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thuở hãy còn trứng nước,
Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,
Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.
Với Dâu Rễ
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,
Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,
Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!
Hôn nhân trạch phối nghỉa là kén chọn lứa đôi cho con
Xem tông xem giống: tục ngử có câu lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống
Với Tôi Tớ
Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì gia đặt hẳn ân uy,
Bọt bèo là phận nô tỳ,
Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví "Chiều người lấy việc",
Chẳng há nên ráo riết người ta,
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi,
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.
Thờ Cúng
Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
Đạo quỉ thần thì kính viễn chi,
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,
Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,
Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô Phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi,
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,
Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.
Dạy Con Ở Cho Có Đức
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên.
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng: ngày đói tháng đông,
Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,
Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
Dạy Con Gái Phải Có Đức Hạnh
Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,
Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,
Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,
Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh.
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Vợ Khuyên Chồng
Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si.
Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng tiền nhân,
Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm,
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
Thế gian lắm kẻ điên mê,
Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!
Dạy Học Trò Ở Cho Phải Đạo
Nào là những kẻ học trò,
Nghe lời thầy dạy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
Đến những khi nuôi nấng giữ giàn.
Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào?
Chữ rằng "sinh ngã cù lao",
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Khuyên Học Trò Phải Chăm Học
Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.
Bước lên đường vào cửa ung dung,
Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng
Học hành cho biết thủy chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
Phú cho tai mắt thông minh,
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.
Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
Xem cho đến Bách gia, Chư tử,
Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.
Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,
Cương thường giữ hiếu làm nên,
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.
Lý cho cách vật, trí tri,
Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu than
Phần thứ nhất
TỤC NGỮ CA DAO CỔ VIỆT NAM - TINH HOA ĐẠO ĐỨC
1 - NHỮNG RĂN DẠY VỀ CÁCH ĂN Ở TRONG GIA TỘC
1.1 - Với cội nguồn:
Uống nước, nhớ nguồn.
Con người có tổ, có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Con chim có tổ, con người có tông.
Con chim tìm tổ, con người tìm tông.
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây,
Ăn gạo, nhớ kẻ đâm xay giần sàng.
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây,
Ăn khoai, nhớ kẻ cho dây mà trồng.
Ăn cây nào, vào cây ấy.
Ăn cây nào, rào cây ấy.
Ăn của Bụt, thắp hương thờ Bụt.
Ăn oản, thời phải thờ Phật.
Ăn oản, phải giữ lấy chùa.
Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật.
Ta về, ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Cáo chết ba năm, còn quay đầu về núi.
1.2- Đạo làm con
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, mới là chân tu.
Nâng niu bú mớm đêm ngày,
Công cha, nghĩa mẹ, coi tày bể non.
Có nuôi con, mới biết lòng cha mẹ.
Lên non, mới biết non cao,
Nuôi con, mới biết công lao mẫu từ.
Con mẹ thương mẹ lắm thay,
Chín tháng mười ngày, mang nặng đẻ đau.
Liệu mà thờ mẹ kính cha,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Có cha, có mẹ, thì hơn,
Không cha, không mẹ, như đờn đứt giây.
Trách ai được cá quên nơm,
Được chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm mớm, lưỡi lừa cá xương.
Vẳng nghe tiếng vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng, mà nuôi mẹ già.
Mẹ cha như chuối chín cây,
Sao đấy chẳng liệu, cho đây liệu cùng.
Cha mẹ ở tấm lều tranh,
Sớm thăm, tối viếng, mới đành dạ con.
Mẹ cha như nước như mây,
Làm con phải ở cho tày lòng son.
Con có làm ra của vạn tiền trăm,
Con ơi, hãy nhớ lúc con nằm trong nôi.
Trâu dê chết để tế ruồi,
Sao bằng lúc sống, ngọt bùi là hơn.
Lúc sống, thời chẳng cho ăn,
Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi.
Sống thì chẳng cho ăn nào,
Chết thì cúng giỗ, mâm cao cỗ đầy.
Dạy con, con nhớ lấy lời,
Trọng cha, kính mẹ, suốt đời chớ quên.
Con giữ cha, gà giữ ổ.
Dâu hiền hơn gái, rể hiền hơn trai.
Trai mà chi, gái mà chi,
Cốt sao có nghĩa, có nghì là hơn.
Con ở đâu, cha mẹ đấy,
Cháu con ở đâu, tổ tiên ở đấy.
Trẻ đeo hoa, già đeo tật.
Già sinh tật, đất sinh cỏ.
Lụ khụ, như ông cụ bảy mươi.
Bảy mươi chưa đui, chưa què, chớ khoe là giỏi.
Một già, một trẻ như nhau.
Kính lão, đắc thọ.
Thương già, già để tuổi cho.
Cá không ăn muối, cá ươn,
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
Cha mẹ là biển là trời,
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.
Nói con, con chẳng nghe lời,
Con nghe ông huyểnh, ông hoảng, hết đời nhà con.
Cha mẹ đánh cửa trước, vào cửa sau. (1)
Một mẹ, nuôi được mười con,
Mười con, không nuôi được một mẹ.
Con bà, có thương bà đâu,
Để cho chàng rể, nàng dâu thương cùng.
Cha mẹ nuôi con, bằng trời bằng bể,
Con nuôi cha mẹ, con kể từng ngày.
Mẹ nuôi con, biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ, kể tháng kể ngày.
Mẹ già hết gạo treo niêu,
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.
Mẹ lá rau, lá má,
Con đầy rá, đầy mâm.
Mẹ sớm chiều, ngược xuôi tất tưởi,
Con đẫy ngày, đám dưới đám trên.
Cơm cha thời ngon, cơm con thời đắng.
Bình phong khảm ốc xà cừ,
Vợ hư thời bỏ, chớ từ mẹ cha.
Bất hiếu chi tử? (2)
Bên cha cũng kính , bên mẹ cũng vái.
Mẹ chồng nàng dâu,
Chủ nhà, người ở, khen nhau bao giờ.
Thật thà, cũng thể lái trâu,
Yêu nhau, cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Mẹ chồng dữ, mẹ chồng chết,
Nàng dâu có nết, nàng dâu chừa.
Chồng dữ, thời em mới rầu,
Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.
Chưa làm dâu, đã hay đâu làm mẹ chồng.
Tứ thân phụ mẫu.
Thông gia, là bà con.
Thông gia, hai nhà như một.
Sống vì mồ vì mả,
Không ai vì cả bát cơm.
Mồ mả làm cho người ta khá.
Giữ như giữ mả tổ.
Sống Tết, chết Giỗ.
Trưởng bại, hại ông vải.
Trưởng nam bại, ông vải vong.
Con cháu mà dại, thời hại cha ông.
Con hơn cha, là nhà có phúc.
Con khôn, nở mặt mẹ cha.
Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ.
Làm anh, làm ả, phải ngả mặt lên.
Một người làm nên, cả họ được cậy,
Một người làm bậy, cả họ mất nhờ.
Một người làm xấu, cả bậu mang dơ.
Một người làm quan,
Thời sang cả họ.
Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó.
Tột cùng Thiện, không gì hơn hiếu,
Tột cùng Ác, không gì hơn bất hiếu.
Kính cha, tấm lụa tấm là,
Trọng cha, đồng quà tấm bánh.
Sáng thăm, tối viếng. Cơm nặng áo dày.
Sáng cơm, trưa cháo, chiều trà,
Chăm cha, chăm mẹ, tuổi già xa xăm. (3)
Trẻ cậy cha, già cậy con,
Trẻ thì dưỡng cây, già thì cây dưỡng.
Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con.
Xin người hiếu tử gắng khuyên,
Kịp thời nuôi nấng, cho tuyền đạo con,
Kẻo khi sông cạn đá mòn,
Thơ ca ngâm đọc, có còn thấy chi.
Công cha như núi Thái Sơn, (4)
Nghĩa mẹ như nước, trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu, mới là Đạo con.
Ngày nào em bé cỏn con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này.
Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy,
Nghĩ sao cho bõ, những ngày ước ao.
Thờ cha kính mẹ hết lòng,
Ấy là chữ Hiếu, dạy trong luân thường
Thảo thơm, sau trước nhịn nhường,
Nhường anh nhường chị, lẫn nhường người trên.
Ghi lòng tạc dạ chớ quên,
Con em phải giữ, lấy nền con em.
Ba năm bú mớm con thơ,
Kể công cha mẹ, biết cơ ngần nào.
Dạy rằng chín chữ cù lao, (5)
Bể sâu không ví, trời cao không bì.
Chú thích:
(1) Ý nói không bao giờ được phép giận hờn cha mẹ, giận hờn cha mẹ là thất hiếu.
(2) Kẻ bất hiếu coi như đã chết.
(3) Năm câu này nêu lên được lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ khi cha
mẹ còn sống.
(4) Một trái núi rất cao to và đẹp bên Trung Hoa.
(5) Chín chữ cù lao: nói công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con cái.
Mượn điển cố trong Kinh Thi: Ai ai phụ mẫu ngã cù lao... Phụ hề sinh ngã. Mẫu hề
cúc ngã, phủ ngã, súc ngã, trưởng ngã, dục ngã, cố ngã, phúc ngã, xuất nhập phục
ngã. Dục báo chi đức, hạo nhiên võng cực. Nghĩa là:
Xót thương cha mẹ ta, sinh ra ta khó nhọc... Cha ta sinh ra ta, mẹ ta nâng đỡ
ta từ trong bụng; cha mẹ đã vỗ về nuôi nấng cho ta bú mớm, bồi bổ cho ta khôn lớn,
dạy cho ta lời khôn lẽ phải lo lắng theo dõi khi ta đi đâu, dựa theo tính ta mà
khuyên răn ta, che chở, giữ gìn cho ta. Muốn báo đền ơn đức cha mẹ, công đức đó
như trời rộng không có giới hạn. Người sau nói gọn lại là Chín chữ cù lao (Cửu
tự cù lao).
1.3- Cha mẹ với con cái
Con yêu nhỏ bé ngây thơ,
Tập đi, tập nói trầm trồ dễ nghe.
Ngầm ngập như mẹ gặp con,
Lon xon như con gặp mẹ.
Cá chuối, đắm đuối vì con.
Năm con năm nhớ, mười con mười thương.
Yêu con, ngon của.
Thương con, ngon rau.
Đói lòng con, héo hon cha mẹ.
Chim trời, ai dễ đếm lông,
Nuôi con, ai dễ kể công tháng ngày.
Con lúc nhỏ bú mẹ, lớn bú cha.
Con biết nói, mẹ hói đầu.
Con đẹn con sài, chớ hoài bỏ đi.
Hổ chẳng nỡ ăn thịt con.
Có con tội sống, không con tội chết.
Con dại, cái mang.
Lựa được con dâu, sâu con mắt.
Cha muốn cho con hay,
Thầy mong cho trò khá.
Mẹ nào con ấy,
Cha nào con ấy.
Con nhờ đức mẹ. Phúc đức tại mẫu.
Mẹ hiền, dân tốt.
Sẩy cha, ăn cơm với cá,
Sẩy mẹ, liếm lá ngoài chợ.
Cha mẹ sinh con, trời sinh tính,
Sinh con, há dễ sinh lòng.
Một mẹ già, bằng ba đụn thóc.
Có mẹ già, bằng ba rào giậu.
Có con, chết cũng ra ma,
Không con, chết cũng khiêng ra ngoài đồng.
Con nuôi cha, không bằng bà nuôi ông.
Lệnh ông, không bằng cồng bà.
Nuôi con cho đến vuông tròn,
Mẹ thầy vất vả, xương mòn gối long,
Con ơi, gắng trọn hiếu trung,
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
1.4- Cách ăn ở trong anh em họ hàng gia tộc
Chú cũng như cha.
Dì cũng như mẹ.
Cô cũng như cha.
Sẩy cha còn chú,
Sẩy mẹ bú dì.
Dì ruột, thương cháu như con,
Rủi mà không mẹ, cháu còn cậy trông.
Nó lú, có chú nó khôn.
Không cha, có chú, ai ơi,
Thay mặt đổi lời, chú cũng như cha.
Bé, nhưng con nhà bác,
Lớn xác, nhưng con nhà chú.
Con chú, con bác, có khác gì nhau.
Dây mơ, rễ má, con bá, con dì.
Nhất con, nhì cháu, thứ sáu người dưng.
Một giọt máu đào, hơn ao nước lã.
Chị em, trên kính dưới nhường,
Là nhà có phúc, mọi đường yên vui.
Em khôn, cũng là em chị,
Chị dại, cũng là chị em.
Em thuận, anh hòa, là nhà có phúc.
Trên thuận dưới hòa, là nhà có phúc.
Anh ngủ em thức,
Em chực anh nằm.
Anh em, như tre cùng khóm.
Chị em gái, như trái cau non.
Con đàn, như tre, ấm bụi.
Anh em, như thể chân tay.
Anh nhường, em kính.
Quyền huynh thế phụ.
Anh em, hạt máu sẻ đôi.
Anh em, ăn ở thuận hòa,
Chớ điều chênh lệch, người ta chê cười.
Con một mẹ, như hoa một chùm,
Yêu nhau, nên phải bọc đùm cùng nhau.
Yêu con chị, vị con em.
Con chị cõng con em.
Con chị đi, con dì nhớn.
Yêu hoa, nên phải vin cành.
Yêu cây, nên dấu đến hoa.
Yêu nhau, cái chấy cắn đôi.
Anh em trong nhà, đóng cửa bảo nhau.
Yêu nhau, rào giậu cho kín.
Yêu nhau, chín bỏ làm mười.
Yêu nhau, mọi việc chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch, cũng kê cho bằng.
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau.
Cắt dây bàu, dây bí,
Chẳng ai cắt dây chị, dây em.
Chém nhau đường sống,
Không ai chém nhau đường lưỡi.
Tay chém tay, sao nỡ,
Ruột cắt ruột, sao đành.
Đắng cay, vẫn thể ruột rà,
Dù xa xa lắm, vẫn là anh em.
Vị tình vị nghĩa,
Không ai vị đĩa xôi đầy.
Bà con, vì tổ vì tiên,
Không phải vì tiền, vì gạo.
Bắt người bỏ giỗ,
Không ai bắt người cỗ bé.
Môi hở, răng lạnh.
Mỗi người mỗi điều,
Dỡ lều mà đi.
Da gà, bọc lấy xương gà.
Một người nhà, bằng ba người mượn.
Anh em, như chân với tay,
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
Vì sông, nên phải lụy thuyền,
Những như đường liền, ai phải lụy ai.
Chị em khi túng, chúng bạn khi cùng.
Lá lành, đùm lá rách.
Lá rách ít, đùm lá rách nhiều.
Cành dưới, đỡ cành trên.
Chị ngã, em nâng.
Lọt sàng, xuống nia.
Anh em sảy vai, xuông cánh tay.
Vị cây, dây leo.
Vị thần, mới nể cây đa.
Rút dây, động rừng.
Máu chảy, ruột mềm.
Tay đứt, ruột xót.
Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.
Chết cả đống, hơn sống một người.
Máu ai, thấm thịt người ấy.
Máu chảy đến đâu, ruồi bâu đến đấy.
Từ gót chí đầu, đau đâu khốn đấy.
Muối đổ lòng ai, nấy xót.
2- NHỮNG LỜI RĂN DẠY VỀ NÓI NĂNG GIAO TIẾP
Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Tiếng chào, cao hơn mâm cỗ.
Dao năng liếc thì sắc,
Người năng chào thì quen.
Lời nói, gói vàng.
Nói đúng, như gãi vào chỗ ngứa.
Nói ngọt, lọt đến xương.
Nói hay, hơn hay nói.
Nói phải, củ cải cũng nghe.
Lời nói, nên vợ, nên chồng.
Thổi quyên, phải biết chiều hơi,
Khuyên người, phải biết lựa lời khôn ngoan.
Lời nói, chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói, cho vừa lòng nhau.
Nói gần, nói xa, chẳng qua nói thật.
Thuốc đắng dã tật - Nói thật mất lòng.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Ăn mặn nói ngay, hơn ăn chay nói dối.
Một câu nói ngay, bằng ăn chay cả tháng.
Một lời nói dối, sám hối bảy ngày.
Ăn có nhai, nói có nghĩ.
Ăn bớt bát, nói bớt lời.
Biết thì thưa thốt,
Không biết, dựa cột mà nghe.
Một sự nhịn, chín sự lành.
Nói như dao chém đá.
Quân tử nhất ngôn.
Một sự thất tín, vạn sự chẳng tin.
Đa ngôn, đa quá. (1)
Rượu nhạt, uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Nói chín, thời nên làm mười,
Nói mười làm chín, kẻ cười người chê.
Nói lời, thì giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Một lời nói, được quan tiền tấm lụa,
Một lời nói, được dùi đục cẳng tay.
Một lời nói, được quan tiền tấm bánh,
Một lời nói, được đòn gánh phang nghiêng.
Roi song đánh đoạn thời thôi,
Một lời xiết cạnh, muôn đời chẳng quên.
Lời nói, đau hơn roi vọt.
Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời.
Khẩu Phật, tâm xà.
Nọc người, bằng mười nọc rắn.
Lưỡi sắc hơn gươm.
Lưỡi mềm, độc quá con ong.
Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo.
Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm.
Khẩu thiệt đại can qua (2).
Lời nói đọi máu. (3)
Ăn lắm, thì hết miếng ngon,
Nói lắm, thì hết lời khôn hóa rồ.
Khôn ngoan, chẳng lọ nói nhiều,
Người khôn, nói một vài điều cũng khôn.
Chim khôn, tiếc lông,
Người khôn, tiếc lời.
Chim khôn, kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn, nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Vàng thời thử lửa, thử than,
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.
Người thanh, tiếng nói cũng thanh,
Chuông kêu, khẽ đánh bên thành cũng kêu.
Vạ ở miệng ra, bệnh qua miệng vào.
Vạ tay, không hay bằng vạ miệng.
Sảy chân, còn hơn sảy miệng.
Sảy chân, gượng lại còn vừa,
Sảy miệng, biết nói làm sao bây giờ.
Một lời, đã trót nói ra,
Dù rằng bốn ngựa, khó mà đuổi theo.
Lời nói, không cánh mà bay.
Một miệng thì kín, chín miệng thì hở.
Vàng sa xuống giếng, khôn tìm,
Người sa lời nói, như chim sổ lồng.
Rừng có mạch, vách có tai,
Người trong chưa tỏ, người ngoài đã hay.
Vai kia, gánh lắm cũng chồn,
Người khôn nói lắm, có khôn bao giờ.
Đất xấu, trồng cây ngẳng nghiu,
Những người thô tục, nói điều phàm phu.
Hay chửi hay rủa, là quạ dương gian,
Hay hát, hay đàn, là tiên hạ giới.
Nói người, chẳng nghĩ đến ta,
Thử sờ lên gáy, xem xa hay gần.
Nói người, chẳng nghĩ đến thân,
Thử sờ lên gáy, xem gần hay xa.
Đất tốt, trồng cây rườm rà,
Những người thanh lịch, nói ra quý quyền.
Đất tốt, trồng cây rườm rà,
Những người quý giá, nói ra dịu dàng.
Kim vàng, ai nỡ uốn câu,
Người khôn, ai nỡ nói nhau nặng lời.
Trời sinh ra đã làm người,
Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi.
Khi ăn, thời phải lựa mùi,
Khi nói, thời phải lựa lời chớ sai,
Cả vui, chớ có vội cười,
Nơi không lễ phép, chớ chơi làm gì.
Con ơi, mẹ bảo con này,
Học hành chăm chỉ, cho tày người ta
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười,
Dù no, dù đói, cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, là người lo toan.
Bảo vâng, gọi dạ, con ơi,
Vâng lời sau trước, con thời chớ quên.
Công cha, nghĩa mẹ, khôn đền,
Vào thưa, ra gửi, mới nên con người.
Chú thích
(1) Nói nhiều hay quá lời.
(2) Lời nói gây ra chiến tranh.
(3) Lời nói bát máu.
3- NHỮNG LỜI RĂN DẠY VỀ NHÂN ĐỨC
Sinh ra trong cõi hồng trần,
Là người, phải lấy chữ Nhân làm đầu.
Có nhân nhân nở, vô nhân nhân trẩm.
Người là vàng, của là ngãi.
Người là hoa đất.
Người sống, đống vàng.
Thân trọng thiên kim. (1)
Một mặt người, bằng mười mặt của.
Người làm ra của,
Của không làm ra người.
Thức lâu, mới biết đêm dài,
Ở lâu, mới biết là người có nhân.
Thương người, như thể thương thân.
Ở có nhân, mười phần chẳng khốn.
Đức nhân thắng số.
Có đức, mặc sức mà ăn.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước, phải thương nhau cùng.
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn.
Chùa rách, có Phật vàng.
Đất sỏi, có chạch vàng.
Tìm nơi, có đức gửi thân,
Tìm nơi, có nhân gửi của.
Bến hiền, thuyền đậu.
Bến dữ, thuyền lui.
Còn người thì còn của.
Người làm ra của,
Của không làm ra người.
Lấy của che thân,
Không ai lấy thân che của.
Rậm người, hơn rậm của.
Bền người, hơn bền của.
Ăn bát cơm dẻo,
Nhớ nẻo đường đi.
Một miếng khi đói,
Bằng gói khi no.
Bát cơm phiếu mẫu, (2)
Trả ơn ngàn vàng.
Một đêm nằm, bằng năm ở.
Đường mòn, ân nghĩa không mòn.
Cứu được một người,
Phúc đẳng hà sa.
Cứu nhất nhân, đắc vạn phúc.
Giết một con cò, cứu trăm con tép.
Tháng hè, đóng bè làm phúc.
Dẫu xây chín bậc phù đồ,
Không bằng làm phúc, cứu cho một người.
Ở hiền, thì lại gặp lành,
Những người nhân đức, trời dành phần cho.
Ở hiền, thì lại gặp lành,
Ở ác, gặp dữ, tan tành ra tro.
Ở hiền, thì lại gặp lành,
Hễ ai ở ác, tội dành vào thân.
Ao sâu, tốt cá,
Hiểm dạ, hại mình.
Ao sâu, tốt cá,
Độc dạ, khốn thân.
Ác giả, ác báo.
Hại nhân, nhân hại.
Ác giả, ác báo,
Thiện giả, thiện lai.
Tích thiện, phùng thiện,
Tích ác, phùng ác.
Ở hậu, gặp hậu,
Ở ác, gặp ác.
Cấy gió, chịu bão.
Sát nhân, giả tử,
Thiện đạo chí công.
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
Đời cha trồng cây, đời con ăn quả.
Đời trước đắp nấm, đời sau ấm mồ.
Tu nhân tích đức.
Ăn ở thiện, có thiện thần biết,
Ăn ở ác, có ác thần hay.
Làm phúc, cũng như làm giàu.
Có phúc, có phần.
Làm phúc, không cần được phúc.
Của ít, lòng nhiều.
Rủ nhau làm phúc, chớ giục nhau đi kiện.
Bần thanh, hơn phú trọc.
Điều lành, thì nhớ,
Điều dở, thì quên.
Điều lành, mang lại,
Điều dại, mang đi.
Một sự nhịn, chín sự lành.
Cây xanh, thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành, để đức cho con.
Khuyên ai ăn ở cho lành,
Kiếp này chưa gặp, để dành kiếp sau.
Ở hiền, rồi lại gặp lành,
Áo rách tan tành, trời vá lại cho.
Ở hiền, rồi lại gặp lành,
Những người nhân đức, trời dành phúc cho.
Ơn ai một chút, chớ quên,
Oán ai một chút, cất bên dạ này.
Sướng gì hơn sướng làm lành,
Như bao nhiêu của, để dành bấy nhiêu.
Người trồng cây hạnh, người chơi,
Ta trồng cây đức, để đời về sau.
Thật thà, là cha quỷ quái,
Thật thà, ma vật không chết.
Ai bảo Trời không có mắt.
Người sống, của còn,
Người chết, của hết.
Co co quắp quắp,
Chết chẳng đem được nào.
Chín đụn mười trâu,
Chết cũng hai tay cắp đít.
Của giàu tám vạn ngàn tư
Chết hai tay buông xuôi.
Sống gửi, thác về. (3)
Hễ muốn ra con người tử tế,
Phải dễ dàng, chớ để ai hờn,
Làm ơn, ắt hẳn nên ơn,
Trời nào phụ kẻ có nhân bao giờ.
Bớt ăn, bớt mặc ở mình,
Để mà lấy phúc hiển vinh lâu dài.
Áo cơm có hạn thời thôi,
Của đời rồi lại trả đời về không.
Sao bằng tích phúc lấy công,
Nhân duyên thoát khỏi cái vòng trần ai.
Ở cho có nghĩa có nhân,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông sánh với bảy tròn,
Đời cha ân đức, đời con sang giàu.
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng,
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn, mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Đời người hữu tử, hữu sinh,
Sống cho xứng đáng, thác dành tiếng thơm.
Làm sao như quế trên non,
Trăm năm khô mục, vẫn còn thơm tho.
Thương người, như thể thương thân,
Thấy người hoạn nạn, thì thương,
Thấy người tàn tật, lại càng trông nom,
Thấy người già yếu, mỏi mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non xoay vần.
Ở cho có đức, có nhân,
Mới mong đời tự, được ăn lộc trời.
Thương người, tất cả ngược xuôi,
Thương người, lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người, ôm dắt trẻ thơ,
Thương người, tuổi tác, già nua bần hàn.
Thương người, cô quả, cô đơn,
Thương người, đói rách, lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách, thì thương,
Rách thời cho mặc, đói thời cho ăn.
Thương người, như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà,
Đồng tiền, bát gạo, mang ra,
Rằng đây cần kiệm, gọi là làm duyên.
May ta ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá, chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng ngày đói tháng đông,
Thương người, bớt miệng, bớt lòng mà cho.
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Gia huấn ca - Nguyễn Trãi(4)
Chú thích
(1) Người quý ngàn vàng.
(2) Sự tích: Hàn Tín thuở hàn vi, câu cá không đủ ăn nên phải đói, một bà già
giặt lụa (phiếu mẫu) tặng Hàn Tín một bát cơm - Về sau Hàn Tín làm nên đại tướng
và Sở vương, Hàn Tín tìm về biếu bà 1000 lạng vàng. Truyện “Nhất phạn thiên
kim”, bát cơm ngàn vàng là như vậy.
(3) Quan niệm về sống chết theo tư tưởng của Đạo Phật, không giống với quan niệm
của chúng ta ngày nay, dù sao cũng có tác dụng khuyên răn người ta lúc sống
không nên tham (vì sống gửi).
(4) Gia huấn ca của Nguyễn Trãi có từ thế kỷ thứ 15, đã được phổ biến như ca
dao.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
TỤC NGỮ CA DAO CỔ VIỆT NAM - TINH HOA ĐẠO ĐỨC
1 - NHỮNG RĂN DẠY VỀ CÁCH ĂN Ở TRONG GIA TỘC
1.1 - Với cội nguồn:
Uống nước, nhớ nguồn.
Con người có tổ, có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Con chim có tổ, con người có tông.
Con chim tìm tổ, con người tìm tông.
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây,
Ăn gạo, nhớ kẻ đâm xay giần sàng.
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây,
Ăn khoai, nhớ kẻ cho dây mà trồng.
Ăn cây nào, vào cây ấy.
Ăn cây nào, rào cây ấy.
Ăn của Bụt, thắp hương thờ Bụt.
Ăn oản, thời phải thờ Phật.
Ăn oản, phải giữ lấy chùa.
Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật.
Ta về, ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Cáo chết ba năm, còn quay đầu về núi.
1.2- Đạo làm con
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, mới là chân tu.
Nâng niu bú mớm đêm ngày,
Công cha, nghĩa mẹ, coi tày bể non.
Có nuôi con, mới biết lòng cha mẹ.
Lên non, mới biết non cao,
Nuôi con, mới biết công lao mẫu từ.
Con mẹ thương mẹ lắm thay,
Chín tháng mười ngày, mang nặng đẻ đau.
Liệu mà thờ mẹ kính cha,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Có cha, có mẹ, thì hơn,
Không cha, không mẹ, như đờn đứt giây.
Trách ai được cá quên nơm,
Được chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm mớm, lưỡi lừa cá xương.
Vẳng nghe tiếng vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng, mà nuôi mẹ già.
Mẹ cha như chuối chín cây,
Sao đấy chẳng liệu, cho đây liệu cùng.
Cha mẹ ở tấm lều tranh,
Sớm thăm, tối viếng, mới đành dạ con.
Mẹ cha như nước như mây,
Làm con phải ở cho tày lòng son.
Con có làm ra của vạn tiền trăm,
Con ơi, hãy nhớ lúc con nằm trong nôi.
Trâu dê chết để tế ruồi,
Sao bằng lúc sống, ngọt bùi là hơn.
Lúc sống, thời chẳng cho ăn,
Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi.
Sống thì chẳng cho ăn nào,
Chết thì cúng giỗ, mâm cao cỗ đầy.
Dạy con, con nhớ lấy lời,
Trọng cha, kính mẹ, suốt đời chớ quên.
Con giữ cha, gà giữ ổ.
Dâu hiền hơn gái, rể hiền hơn trai.
Trai mà chi, gái mà chi,
Cốt sao có nghĩa, có nghì là hơn.
Con ở đâu, cha mẹ đấy,
Cháu con ở đâu, tổ tiên ở đấy.
Trẻ đeo hoa, già đeo tật.
Già sinh tật, đất sinh cỏ.
Lụ khụ, như ông cụ bảy mươi.
Bảy mươi chưa đui, chưa què, chớ khoe là giỏi.
Một già, một trẻ như nhau.
Kính lão, đắc thọ.
Thương già, già để tuổi cho.
Cá không ăn muối, cá ươn,
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
Cha mẹ là biển là trời,
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.
Nói con, con chẳng nghe lời,
Con nghe ông huyểnh, ông hoảng, hết đời nhà con.
Cha mẹ đánh cửa trước, vào cửa sau. (1)
Một mẹ, nuôi được mười con,
Mười con, không nuôi được một mẹ.
Con bà, có thương bà đâu,
Để cho chàng rể, nàng dâu thương cùng.
Cha mẹ nuôi con, bằng trời bằng bể,
Con nuôi cha mẹ, con kể từng ngày.
Mẹ nuôi con, biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ, kể tháng kể ngày.
Mẹ già hết gạo treo niêu,
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.
Mẹ lá rau, lá má,
Con đầy rá, đầy mâm.
Mẹ sớm chiều, ngược xuôi tất tưởi,
Con đẫy ngày, đám dưới đám trên.
Cơm cha thời ngon, cơm con thời đắng.
Bình phong khảm ốc xà cừ,
Vợ hư thời bỏ, chớ từ mẹ cha.
Bất hiếu chi tử? (2)
Bên cha cũng kính , bên mẹ cũng vái.
Mẹ chồng nàng dâu,
Chủ nhà, người ở, khen nhau bao giờ.
Thật thà, cũng thể lái trâu,
Yêu nhau, cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Mẹ chồng dữ, mẹ chồng chết,
Nàng dâu có nết, nàng dâu chừa.
Chồng dữ, thời em mới rầu,
Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.
Chưa làm dâu, đã hay đâu làm mẹ chồng.
Tứ thân phụ mẫu.
Thông gia, là bà con.
Thông gia, hai nhà như một.
Sống vì mồ vì mả,
Không ai vì cả bát cơm.
Mồ mả làm cho người ta khá.
Giữ như giữ mả tổ.
Sống Tết, chết Giỗ.
Trưởng bại, hại ông vải.
Trưởng nam bại, ông vải vong.
Con cháu mà dại, thời hại cha ông.
Con hơn cha, là nhà có phúc.
Con khôn, nở mặt mẹ cha.
Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ.
Làm anh, làm ả, phải ngả mặt lên.
Một người làm nên, cả họ được cậy,
Một người làm bậy, cả họ mất nhờ.
Một người làm xấu, cả bậu mang dơ.
Một người làm quan,
Thời sang cả họ.
Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó.
Tột cùng Thiện, không gì hơn hiếu,
Tột cùng Ác, không gì hơn bất hiếu.
Kính cha, tấm lụa tấm là,
Trọng cha, đồng quà tấm bánh.
Sáng thăm, tối viếng. Cơm nặng áo dày.
Sáng cơm, trưa cháo, chiều trà,
Chăm cha, chăm mẹ, tuổi già xa xăm. (3)
Trẻ cậy cha, già cậy con,
Trẻ thì dưỡng cây, già thì cây dưỡng.
Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con.
Xin người hiếu tử gắng khuyên,
Kịp thời nuôi nấng, cho tuyền đạo con,
Kẻo khi sông cạn đá mòn,
Thơ ca ngâm đọc, có còn thấy chi.
Công cha như núi Thái Sơn, (4)
Nghĩa mẹ như nước, trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu, mới là Đạo con.
Ngày nào em bé cỏn con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này.
Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy,
Nghĩ sao cho bõ, những ngày ước ao.
Thờ cha kính mẹ hết lòng,
Ấy là chữ Hiếu, dạy trong luân thường
Thảo thơm, sau trước nhịn nhường,
Nhường anh nhường chị, lẫn nhường người trên.
Ghi lòng tạc dạ chớ quên,
Con em phải giữ, lấy nền con em.
Ba năm bú mớm con thơ,
Kể công cha mẹ, biết cơ ngần nào.
Dạy rằng chín chữ cù lao, (5)
Bể sâu không ví, trời cao không bì.
Chú thích:
(1) Ý nói không bao giờ được phép giận hờn cha mẹ, giận hờn cha mẹ là thất hiếu.
(2) Kẻ bất hiếu coi như đã chết.
(3) Năm câu này nêu lên được lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ khi cha mẹ còn sống.
(4) Một trái núi rất cao to và đẹp bên Trung Hoa.
(5) Chín chữ cù lao: nói công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con cái.
Mượn điển cố trong Kinh Thi: Ai ai phụ mẫu ngã cù lao... Phụ hề sinh ngã. Mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, súc ngã, trưởng ngã, dục ngã, cố ngã, phúc ngã, xuất nhập phục ngã. Dục báo chi đức, hạo nhiên võng cực. Nghĩa là:
Xót thương cha mẹ ta, sinh ra ta khó nhọc... Cha ta sinh ra ta, mẹ ta nâng đỡ ta từ trong bụng; cha mẹ đã vỗ về nuôi nấng cho ta bú mớm, bồi bổ cho ta khôn lớn, dạy cho ta lời khôn lẽ phải lo lắng theo dõi khi ta đi đâu, dựa theo tính ta mà khuyên răn ta, che chở, giữ gìn cho ta. Muốn báo đền ơn đức cha mẹ, công đức đó như trời rộng không có giới hạn. Người sau nói gọn lại là Chín chữ cù lao (Cửu tự cù lao).
Con yêu nhỏ bé ngây thơ,
Tập đi, tập nói trầm trồ dễ nghe.
Ngầm ngập như mẹ gặp con,
Lon xon như con gặp mẹ.
Cá chuối, đắm đuối vì con.
Năm con năm nhớ, mười con mười thương.
Yêu con, ngon của.
Thương con, ngon rau.
Đói lòng con, héo hon cha mẹ.
Chim trời, ai dễ đếm lông,
Nuôi con, ai dễ kể công tháng ngày.
Con lúc nhỏ bú mẹ, lớn bú cha.
Con biết nói, mẹ hói đầu.
Con đẹn con sài, chớ hoài bỏ đi.
Hổ chẳng nỡ ăn thịt con.
Có con tội sống, không con tội chết.
Con dại, cái mang.
Lựa được con dâu, sâu con mắt.
Cha muốn cho con hay,
Thầy mong cho trò khá.
Mẹ nào con ấy,
Cha nào con ấy.
Con nhờ đức mẹ. Phúc đức tại mẫu.
Mẹ hiền, dân tốt.
Sẩy cha, ăn cơm với cá,
Sẩy mẹ, liếm lá ngoài chợ.
Cha mẹ sinh con, trời sinh tính,
Sinh con, há dễ sinh lòng.
Một mẹ già, bằng ba đụn thóc.
Có mẹ già, bằng ba rào giậu.
Có con, chết cũng ra ma,
Không con, chết cũng khiêng ra ngoài đồng.
Con nuôi cha, không bằng bà nuôi ông.
Lệnh ông, không bằng cồng bà.
Nuôi con cho đến vuông tròn,
Mẹ thầy vất vả, xương mòn gối long,
Con ơi, gắng trọn hiếu trung,
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
1.4- Cách ăn ở trong anh em họ hàng gia tộc
Chú cũng như cha.
Dì cũng như mẹ.
Cô cũng như cha.
Sẩy cha còn chú,
Sẩy mẹ bú dì.
Dì ruột, thương cháu như con,
Rủi mà không mẹ, cháu còn cậy trông.
Nó lú, có chú nó khôn.
Không cha, có chú, ai ơi,
Thay mặt đổi lời, chú cũng như cha.
Bé, nhưng con nhà bác,
Lớn xác, nhưng con nhà chú.
Con chú, con bác, có khác gì nhau.
Dây mơ, rễ má, con bá, con dì.
Nhất con, nhì cháu, thứ sáu người dưng.
Một giọt máu đào, hơn ao nước lã.
Chị em, trên kính dưới nhường,
Là nhà có phúc, mọi đường yên vui.
Em khôn, cũng là em chị,
Chị dại, cũng là chị em.
Em thuận, anh hòa, là nhà có phúc.
Trên thuận dưới hòa, là nhà có phúc.
Anh ngủ em thức,
Em chực anh nằm.
Anh em, như tre cùng khóm.
Chị em gái, như trái cau non.
Con đàn, như tre, ấm bụi.
Anh em, như thể chân tay.
Anh nhường, em kính.
Quyền huynh thế phụ.
Anh em, hạt máu sẻ đôi.
Anh em, ăn ở thuận hòa,
Chớ điều chênh lệch, người ta chê cười.
Con một mẹ, như hoa một chùm,
Yêu nhau, nên phải bọc đùm cùng nhau.
Yêu con chị, vị con em.
Con chị cõng con em.
Con chị đi, con dì nhớn.
Yêu hoa, nên phải vin cành.
Yêu cây, nên dấu đến hoa.
Yêu nhau, cái chấy cắn đôi.
Anh em trong nhà, đóng cửa bảo nhau.
Yêu nhau, rào giậu cho kín.
Yêu nhau, chín bỏ làm mười.
Yêu nhau, mọi việc chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch, cũng kê cho bằng.
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau.
Cắt dây bàu, dây bí,
Chẳng ai cắt dây chị, dây em.
Chém nhau đường sống,
Không ai chém nhau đường lưỡi.
Tay chém tay, sao nỡ,
Ruột cắt ruột, sao đành.
Đắng cay, vẫn thể ruột rà,
Dù xa xa lắm, vẫn là anh em.
Vị tình vị nghĩa,
Không ai vị đĩa xôi đầy.
Bà con, vì tổ vì tiên,
Không phải vì tiền, vì gạo.
Bắt người bỏ giỗ,
Không ai bắt người cỗ bé.
Môi hở, răng lạnh.
Mỗi người mỗi điều,
Dỡ lều mà đi.
Da gà, bọc lấy xương gà.
Một người nhà, bằng ba người mượn.
Anh em, như chân với tay,
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
Vì sông, nên phải lụy thuyền,
Những như đường liền, ai phải lụy ai.
Chị em khi túng, chúng bạn khi cùng.
Lá lành, đùm lá rách.
Lá rách ít, đùm lá rách nhiều.
Cành dưới, đỡ cành trên.
Chị ngã, em nâng.
Lọt sàng, xuống nia.
Anh em sảy vai, xuông cánh tay.
Vị cây, dây leo.
Vị thần, mới nể cây đa.
Rút dây, động rừng.
Máu chảy, ruột mềm.
Tay đứt, ruột xót.
Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.
Chết cả đống, hơn sống một người.
Máu ai, thấm thịt người ấy.
Máu chảy đến đâu, ruồi bâu đến đấy.
Từ gót chí đầu, đau đâu khốn đấy.
Muối đổ lòng ai, nấy xót.
Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Tiếng chào, cao hơn mâm cỗ.
Dao năng liếc thì sắc,
Người năng chào thì quen.
Lời nói, gói vàng.
Nói đúng, như gãi vào chỗ ngứa.
Nói ngọt, lọt đến xương.
Nói hay, hơn hay nói.
Nói phải, củ cải cũng nghe.
Lời nói, nên vợ, nên chồng.
Thổi quyên, phải biết chiều hơi,
Khuyên người, phải biết lựa lời khôn ngoan.
Lời nói, chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói, cho vừa lòng nhau.
Nói gần, nói xa, chẳng qua nói thật.
Thuốc đắng dã tật - Nói thật mất lòng.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Ăn mặn nói ngay, hơn ăn chay nói dối.
Một câu nói ngay, bằng ăn chay cả tháng.
Một lời nói dối, sám hối bảy ngày.
Ăn có nhai, nói có nghĩ.
Ăn bớt bát, nói bớt lời.
Biết thì thưa thốt,
Không biết, dựa cột mà nghe.
Một sự nhịn, chín sự lành.
Nói như dao chém đá.
Quân tử nhất ngôn.
Một sự thất tín, vạn sự chẳng tin.
Đa ngôn, đa quá. (1)
Rượu nhạt, uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Nói chín, thời nên làm mười,
Nói mười làm chín, kẻ cười người chê.
Nói lời, thì giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
Một lời nói, được quan tiền tấm lụa,
Một lời nói, được dùi đục cẳng tay.
Một lời nói, được quan tiền tấm bánh,
Một lời nói, được đòn gánh phang nghiêng.
Roi song đánh đoạn thời thôi,
Một lời xiết cạnh, muôn đời chẳng quên.
Lời nói, đau hơn roi vọt.
Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời.
Khẩu Phật, tâm xà.
Nọc người, bằng mười nọc rắn.
Lưỡi sắc hơn gươm.
Lưỡi mềm, độc quá con ong.
Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo.
Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm.
Khẩu thiệt đại can qua (2).
Lời nói đọi máu. (3)
Ăn lắm, thì hết miếng ngon,
Nói lắm, thì hết lời khôn hóa rồ.
Khôn ngoan, chẳng lọ nói nhiều,
Người khôn, nói một vài điều cũng khôn.
Chim khôn, tiếc lông,
Người khôn, tiếc lời.
Chim khôn, kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn, nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Vàng thời thử lửa, thử than,
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.
Người thanh, tiếng nói cũng thanh,
Chuông kêu, khẽ đánh bên thành cũng kêu.
Vạ ở miệng ra, bệnh qua miệng vào.
Vạ tay, không hay bằng vạ miệng.
Sảy chân, còn hơn sảy miệng.
Sảy chân, gượng lại còn vừa,
Sảy miệng, biết nói làm sao bây giờ.
Một lời, đã trót nói ra,
Dù rằng bốn ngựa, khó mà đuổi theo.
Lời nói, không cánh mà bay.
Một miệng thì kín, chín miệng thì hở.
Vàng sa xuống giếng, khôn tìm,
Người sa lời nói, như chim sổ lồng.
Rừng có mạch, vách có tai,
Người trong chưa tỏ, người ngoài đã hay.
Vai kia, gánh lắm cũng chồn,
Người khôn nói lắm, có khôn bao giờ.
Đất xấu, trồng cây ngẳng nghiu,
Những người thô tục, nói điều phàm phu.
Hay chửi hay rủa, là quạ dương gian,
Hay hát, hay đàn, là tiên hạ giới.
Nói người, chẳng nghĩ đến ta,
Thử sờ lên gáy, xem xa hay gần.
Nói người, chẳng nghĩ đến thân,
Thử sờ lên gáy, xem gần hay xa.
Đất tốt, trồng cây rườm rà,
Những người thanh lịch, nói ra quý quyền.
Đất tốt, trồng cây rườm rà,
Những người quý giá, nói ra dịu dàng.
Kim vàng, ai nỡ uốn câu,
Người khôn, ai nỡ nói nhau nặng lời.
Trời sinh ra đã làm người,
Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi.
Khi ăn, thời phải lựa mùi,
Khi nói, thời phải lựa lời chớ sai,
Cả vui, chớ có vội cười,
Nơi không lễ phép, chớ chơi làm gì.
Con ơi, mẹ bảo con này,
Học hành chăm chỉ, cho tày người ta
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười,
Dù no, dù đói, cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, là người lo toan.
Bảo vâng, gọi dạ, con ơi,
Vâng lời sau trước, con thời chớ quên.
Công cha, nghĩa mẹ, khôn đền,
Vào thưa, ra gửi, mới nên con người.
Chú thích
(1) Nói nhiều hay quá lời.
(2) Lời nói gây ra chiến tranh.
(3) Lời nói bát máu.
Sinh ra trong cõi hồng trần,
Là người, phải lấy chữ Nhân làm đầu.
Có nhân nhân nở, vô nhân nhân trẩm.
Người là vàng, của là ngãi.
Người là hoa đất.
Người sống, đống vàng.
Thân trọng thiên kim. (1)
Một mặt người, bằng mười mặt của.
Người làm ra của,
Của không làm ra người.
Thức lâu, mới biết đêm dài,
Ở lâu, mới biết là người có nhân.
Thương người, như thể thương thân.
Ở có nhân, mười phần chẳng khốn.
Đức nhân thắng số.
Có đức, mặc sức mà ăn.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước, phải thương nhau cùng.
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn.
Chùa rách, có Phật vàng.
Đất sỏi, có chạch vàng.
Tìm nơi, có đức gửi thân,
Tìm nơi, có nhân gửi của.
Bến hiền, thuyền đậu.
Bến dữ, thuyền lui.
Còn người thì còn của.
Người làm ra của,
Của không làm ra người.
Lấy của che thân,
Không ai lấy thân che của.
Rậm người, hơn rậm của.
Bền người, hơn bền của.
Ăn bát cơm dẻo,
Nhớ nẻo đường đi.
Một miếng khi đói,
Bằng gói khi no.
Bát cơm phiếu mẫu, (2)
Trả ơn ngàn vàng.
Một đêm nằm, bằng năm ở.
Đường mòn, ân nghĩa không mòn.
Cứu được một người,
Phúc đẳng hà sa.
Cứu nhất nhân, đắc vạn phúc.
Giết một con cò, cứu trăm con tép.
Tháng hè, đóng bè làm phúc.
Dẫu xây chín bậc phù đồ,
Không bằng làm phúc, cứu cho một người.
Ở hiền, thì lại gặp lành,
Những người nhân đức, trời dành phần cho.
Ở hiền, thì lại gặp lành,
Ở ác, gặp dữ, tan tành ra tro.
Ở hiền, thì lại gặp lành,
Hễ ai ở ác, tội dành vào thân.
Ao sâu, tốt cá,
Hiểm dạ, hại mình.
Ao sâu, tốt cá,
Độc dạ, khốn thân.
Ác giả, ác báo.
Hại nhân, nhân hại.
Ác giả, ác báo,
Thiện giả, thiện lai.
Tích thiện, phùng thiện,
Tích ác, phùng ác.
Ở hậu, gặp hậu,
Ở ác, gặp ác.
Cấy gió, chịu bão.
Sát nhân, giả tử,
Thiện đạo chí công.
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
Đời cha trồng cây, đời con ăn quả.
Đời trước đắp nấm, đời sau ấm mồ.
Tu nhân tích đức.
Ăn ở thiện, có thiện thần biết,
Ăn ở ác, có ác thần hay.
Làm phúc, cũng như làm giàu.
Có phúc, có phần.
Làm phúc, không cần được phúc.
Của ít, lòng nhiều.
Rủ nhau làm phúc, chớ giục nhau đi kiện.
Bần thanh, hơn phú trọc.
Điều lành, thì nhớ,
Điều dở, thì quên.
Điều lành, mang lại,
Điều dại, mang đi.
Một sự nhịn, chín sự lành.
Cây xanh, thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành, để đức cho con.
Khuyên ai ăn ở cho lành,
Kiếp này chưa gặp, để dành kiếp sau.
Ở hiền, rồi lại gặp lành,
Áo rách tan tành, trời vá lại cho.
Ở hiền, rồi lại gặp lành,
Những người nhân đức, trời dành phúc cho.
Ơn ai một chút, chớ quên,
Oán ai một chút, cất bên dạ này.
Sướng gì hơn sướng làm lành,
Như bao nhiêu của, để dành bấy nhiêu.
Người trồng cây hạnh, người chơi,
Ta trồng cây đức, để đời về sau.
Thật thà, là cha quỷ quái,
Thật thà, ma vật không chết.
Ai bảo Trời không có mắt.
Người sống, của còn,
Người chết, của hết.
Co co quắp quắp,
Chết chẳng đem được nào.
Chín đụn mười trâu,
Chết cũng hai tay cắp đít.
Của giàu tám vạn ngàn tư
Chết hai tay buông xuôi.
Sống gửi, thác về. (3)
Hễ muốn ra con người tử tế,
Phải dễ dàng, chớ để ai hờn,
Làm ơn, ắt hẳn nên ơn,
Trời nào phụ kẻ có nhân bao giờ.
Bớt ăn, bớt mặc ở mình,
Để mà lấy phúc hiển vinh lâu dài.
Áo cơm có hạn thời thôi,
Của đời rồi lại trả đời về không.
Sao bằng tích phúc lấy công,
Nhân duyên thoát khỏi cái vòng trần ai.
Ở cho có nghĩa có nhân,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông sánh với bảy tròn,
Đời cha ân đức, đời con sang giàu.
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng,
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn, mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Đời người hữu tử, hữu sinh,
Sống cho xứng đáng, thác dành tiếng thơm.
Làm sao như quế trên non,
Trăm năm khô mục, vẫn còn thơm tho.
Thương người, như thể thương thân,
Thấy người hoạn nạn, thì thương,
Thấy người tàn tật, lại càng trông nom,
Thấy người già yếu, mỏi mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non xoay vần.
Ở cho có đức, có nhân,
Mới mong đời tự, được ăn lộc trời.
Thương người, tất cả ngược xuôi,
Thương người, lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người, ôm dắt trẻ thơ,
Thương người, tuổi tác, già nua bần hàn.
Thương người, cô quả, cô đơn,
Thương người, đói rách, lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách, thì thương,
Rách thời cho mặc, đói thời cho ăn.
Thương người, như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà,
Đồng tiền, bát gạo, mang ra,
Rằng đây cần kiệm, gọi là làm duyên.
May ta ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá, chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng ngày đói tháng đông,
Thương người, bớt miệng, bớt lòng mà cho.
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Gia huấn ca - Nguyễn Trãi(4)
Chú thích
(1) Người quý ngàn vàng.
(2) Sự tích: Hàn Tín thuở hàn vi, câu cá không đủ ăn nên phải đói, một bà già giặt lụa (phiếu mẫu) tặng Hàn Tín một bát cơm - Về sau Hàn Tín làm nên đại tướng và Sở vương, Hàn Tín tìm về biếu bà 1000 lạng vàng. Truyện “Nhất phạn thiên kim”, bát cơm ngàn vàng là như vậy.
(3) Quan niệm về sống chết theo tư tưởng của Đạo Phật, không giống với quan niệm của chúng ta ngày nay, dù sao cũng có tác dụng khuyên răn người ta lúc sống không nên tham (vì sống gửi).
(4) Gia huấn ca của Nguyễn Trãi có từ thế kỷ thứ 15, đã được phổ biến như ca dao.
|
||||||
|
|
|||||
|
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét